Mã số:
Mã số 01X-12/07-2019-3
Tên đề tài:
Giải pháp đổi mới và quản lý Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên trên địa bàn thành phố Hà Nội trong tình hình mới (19:18 26/09/2022)
Đơn vị chủ trì:
29
Thời gian:
2024
-2024
Lượt đọc:
43
Kết quả nghiệm thu:
Chưa nghiệm thu
Nội dung:

                                                                                                                     Chủ nhiệm đề tài: TS. Phạm Văn Đại
Sự cần thiết:
Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên (GDNN-GDTX) là cơ sở giáo dục thuộc GDTX nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân theo quy định của Luật Giáo dục. Sau khi liên Bộ LĐTBXH, GDĐT, Nội vụ ban hành Thông tư liên tịch số 39/2015/TTLT-BLĐTBXH-BGDĐT-BNV ngày 19/10/2015 (sau đây gọi là Thông tư 39) về hướng dẫn việc sáp nhập trung tâm dạy nghề, trung tâm GDTX, trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp công lập cấp huyện thành trung tâm GDNN-GDTX và Quyết định số 5399/QĐ-UBND ngày 28/9/2016 của UBND thành phố Hà Nội về việc thành lập trung tâm GDNN-GDTX trực thuộc UBND quận, huyện, thị xã, tại Hà Nội các trung tâm đã tiến hành sáp nhập và hiện có 29 trung tâm GDNN-GDTX trên toàn Thành phố.

 

Việc sáp nhập các trung tâm cấp huyện là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với điều kiện thực tiễn của nước ta hiện nay. Các trung tâm sáp nhập sẽ góp phần giảm biên chế, tập trung đầu tư có trọng điểm, tập trung nguồn lực, năng lực mạnh hơn. Mặt khác, việc sáp nhập 03 loại hình trung tâm sẽ có tính tương hỗ nhau khi một trung tâm thực hiện đồng thời 03 nhiệm vụ: GDTX, hướng nghiệp và dạy nghề, góp phần tốt hơn trong việc phân luồng học sinh sau trung học cơ sở (THCS).

 

Tuy nhiên, việc trung tâm GDNN-GDTX chịu sự chỉ đạo, quản lý của 03 đơn vị ở 02 cấp quản lý nhà nước khác nhau (nhiệm vụ GDTX, hướng nghiệp do ngành GDĐT chỉ đạo; nhiệm vụ dạy nghề do ngành LĐTBXH chỉ đạo; con người, tài chính do UBND cấp huyện quản lý) đã làm nảy sinh nhiều khó khăn, bất cập trong công tác chỉ đạo, quản lý và tổ chức hoạt động của trung tâm. Cụ thể:

 

Về quy chế tổ chức hoạt động
Sau khi sáp nhập, hoạt động của các trung tâm GDNN-GDTX đồng thời bị điều chỉnh bởi nhiều văn bản quy phạm pháp luật và các hướng dẫn, quy định của hai cơ quan chuyên môn là Sở GDĐT và Sở LĐTBXH; không có hướng dẫn chung thống nhất các chức năng, nhiệm vụ nên việc xây dựng quy chế tổ chức hoạt động của hầu hết các trung tâm gặp lúng túng, không khả thi. Nhiều trung tâm khi xây dựng quy chế hoạt động, trình UBND quận, huyện phê duyệt nhưng quận, huyện không có bộ phận chuyên môn về GDNN - GDTX nên việc thẩm định để phê duyệt rất khó khăn, mất nhiều thời gian. Cá biệt có trung tâm hoạt động với quy chế tổ chức tự xây dựng, không có cấp thẩm quyền phê duyệt. Nội dung và việc thực hiện quy chế của các trung tâm không có sự thống nhất trên toàn Thành phố, tạo ra những bất cập về cơ chế, chính sách, mô hình hoạt động thiếu tính định hướng để phát triển bền vững.

 

Về công tác cán bộ và vị trí việc làm
UBND cấp huyện là đơn vị chủ quản của trung tâm, do vậy việc bố trí, bổ nhiệm cán bộ giữ chức danh Giám đốc, Phó giám đốc trung tâm thuộc thẩm quyền của UBND cấp huyện. Có một vấn đề thực tiễn đối với việc bổ nhiệm cán bộ quản lý trung tâm GDNN-GDTX hiện nay đó là do không có tiêu chuẩn, điều kiện đội ngũ lãnh đạo trung tâm GDNN-GDTX nên một số quận, huyện đã bổ nhiệm Giám đốc, Phó giám đốc không có thâm niên trong ngành giáo dục hoặc giáo dục nghề nghiệp, hoặc không đúng trình độ thuộc cấp học; là những cán bộ thuộc các phòng ban của UBND cấp huyện được luân chuyển làm Giám đốc, Phó giám đốc trung tâm. Như vậy, công tác chỉ đạo chuyên môn, thực hiện nhiệm vụ  đối với GDTX, dạy nghề, hướng nghiệp tất yếu gặp những khó khăn nhất định.

 

Sau khi sáp nhập, lương và các khoản nộp theo lương cho giáo viên và người lao động vẫn cơ bản được đảm bảo. Tuy nhiên, việc bố trí sắp xếp công việc cho cán bộ, giáo viên gặp khó khăn khi đội ngũ giáo viên dạy văn hóa tại trung tâm GDTX không thể tham gia dạy nghề; đội ngũ giáo viên dạy nghề thiếu nhiều, chủ yếu là thỉnh giảng, dẫn đến công tác xây dựng kế hoạch, phân công lao động, đánh giá xếp loại thi đua khen thưởng, công tác tuyển sinh còn nhiều bất cập. Đó là chưa kể đến việc hàng loạt giáo viên giảng dạy văn hóa tại các trung tâm đã xin chuyển công tác dẫn đến sự thiếu hụt nghiêm trọng giáo viên giảng dạy, các trung tâm phải thuê giáo viên hợp đồng, thỉnh giảng nhiều.

 

Đội ngũ nhân viên hành chính có sự dôi dư do mỗi trung tâm trước khi sáp nhập hầu như đều có đủ đội ngũ nhân viên hành chính để phục vụ cho hoạt động của trung tâm. Sau khi sáp nhập, một trung tâm sẽ có 02 -03 kế toán, 02-03 văn thư, 02 cán bộ thiết bị ... Việc sắp xếp vị trí việc làm cho các nhân viên hành chính không tránh khỏi lúng túng cho người quản lý.

 

Đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên trong một trung tâm có nhiều loại hình, nhiều mã ngạch, nhiều trình độ, năng lực rất khác nhau nên việc sắp xếp, phân công nhiệm vụ ở nhiều trung tâm chưa phù hợp, chưa đảm bảo đúng năng lực, trình độ; một số giáo viên dạy nghề chưa đạt chuẩn về trình độ đào tạo hoặc trình độ đào tạo chuyên môn không phù hợp với việc sắp xếp, bố trí giảng dạy trong trung tâm; một số trung tâm sau khi sáp nhập được bổ sung thêm nhân lực nhưng không thuộc ngành giáo dục nên khó bố trí công việc; giáo viên dạy nghề thiếu nhưng chưa có văn bản quy định về định mức giáo viên thỉnh giảng dạy nghề nên trung tâm khó tham mưu để có giáo viên thực hiện nhiệm vụ.

 

Về chế độ chính sách
Việc thực hiện chế độ phụ cấp chức vụ lãnh đạo mỗi quận, huyện, thị xã thực hiện một cách khác nhau; thậm chí trong cùng một đơn vị, cùng một chức danh Phó Giám đốc nhưng mỗi người một chế độ phụ cấp (các mức từ 0,2-0,5); Giám đốc trung tâm phải thực hiện nhiều nhiệm vụ hơn nhưng phụ cấp hiện nay lại ít hơn do không thể xếp cao hơn phụ cấp của trưởng các phòng, ban cấp huyện.

 

Do trực thuộc UBND cấp huyện nên một số tổ chức Công đoàn trung tâm từ chỗ là tổ chức Công đoàn cơ sở nay là tổ Công đoàn vì vậy không có chế độ trừ giờ cho Chủ tịch công đoàn như trước.

 

Về đánh giá, xếp loại thi đua
Thực hiện công tác chuyên môn của ngành GDĐT, biên chế của trung tâm tính theo năm học; trực thuộc UBND cấp huyện, biên chế của trung tâm là năm tài chính. Vì vậy công tác báo cáo cũng như công tác đánh giá xếp loại giáo viên, thi đua khen thưởng mất nhiều thời gian vì số liệu được tính ở 02 thời điểm khác nhau: nhóm dạy văn hóa đánh giá thi đua và báo cáo 02 lần/năm học; số còn lại đánh giá thi đua và báo cáo theo năm tài chính. Báo cáo gửi UBND cấp huyện, Sở GDĐT, Sở LĐTBXH không có sự thống nhất về biểu mẫu nên trung tâm phải xây dựng theo nhiều bảng biểu khác nhau, khó chính xác, nặng tính hành chính.

 

Mỗi quận, huyện chỉ có một trung tâm GDNN-GDTX nhưng trung tâm lại không được coi như các cơ sở giáo dục giống như các trường Tiểu học, THCS nên phòng GDĐT không quản lý, chỉ đạo, kiểm tra, đánh giá chuyên môn giúp UBND cấp huyện được. Nếu coi trung tâm như các trường Tiểu học, THCS thì các tiêu chí và hoạt động của trung tâm lại không giống các cơ sở giáo dục ở các cấp mầm non, phổ thông vì tính chất của 02 loại hình rất khác nhau. Hiện tại, ở một số quận, huyện, trung tâm được định vị như một phòng, ban của UBND cấp huyện, chịu sự quản lý trực tiếp của lãnh đạo UBND cấp huyện nên nảy sinh những bất cập do trung tâm chỉ có một công chức còn lại chủ yếu là viên chức làm chuyên môn, nghiệp vụ trong khi đó các phòng, ban cấp huyện chủ yếu là công chức làm quản lý nhà nước. Công tác đánh giá, xếp loại thi đua đối với cán bộ, viên chức giáo viên và đơn vị cơ sở là trung tâm so với các cấp học khác trong hệ thống giáo dục quốc dân hiện đang chịu những thiệt thòi nhất định do phải tham chiếu các tiêu chí đánh giá khác nhau và không hoàn toàn theo hệ thống đánh giá của ngành giáo dục; do chưa có các văn bản quy định tiêu chuẩn, tiêu chí chuẩn Giám đốc, quy định xếp hạng trung tâm, kiểm định trung tâm nên việc tổ chức đánh giá, xếp hạng, kiểm định trung tâm chưa thực hiện được; kết quả đánh giá, xếp loại, thi đua không thống nhất ở các quận, huyện.

 

Về cơ sở vật chất
Cơ sở vật chất, trang thiết bị sau sáp nhập cơ bản được bàn giao nguyên trạng nhưng ở nhiều nơi còn thiếu, chưa đồng bộ hoặc quá cũ, lỗi thời, lạc hậu chưa đáp ứng được yêu cầu thực hiện nhiệm vụ dạy học và đào tạo nghề.

 

Đa số các trung tâm có từ 02 đến 03 cơ sở nhưng đa phần các cơ sở ở cách xa nhau; một số trung tâm chỉ có 01 cơ sở (do không phải sáp nhập) nhưng được giao thêm nhiệm vụ GDTX, hướng nghiệp mà không được bổ sung thêm cơ sở vật chất do vậy việc tổ chức hoạt động giáo dục, đào tạo rất khó khăn. Ví dụ như khó khăn trong việc đào tạo nghề: nhu cầu, chỉ tiêu học nghề có nhưng không đảm bảo điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị nên không được Sở LĐTBXH cấp phép hoạt động; khó khăn trong việc thực hiện các nhiệm vụ GDTX: thiếu giáo viên, thiếu trang thiết bị, đồ dùng dạy học để triển khai đổi mới dạy học, nâng cao chất lượng giáo dục.

 

Về việc tổ chức các chương trình đào tạo
Sau sáp nhập, việc tổ chức dạy và học các chương trình GDTX của trung tâm GDNN-GDTX ổn định, cơ bản được duy trì. Tuy nhiên, thời gian gần đây có xu hướng giảm dần số lượng học viên các lớp học văn hoá theo chương trình GDTX và ở các chương trình bồi dưỡng ngắn hạn nội dung kiến thức, kỹ năng đáp ứng nhu cầu người học; chương trình dạy nghề cho lao động nông thôn (từ năm 2008) không có sức hút đối với người lao động nông thôn; chương trình xoá mù chữ còn rất ít lớp khai giảng, chủ yếu tại một vài địa phương nơi có người dân mới nhập cư …; một số chương trình bồi dưỡng giáo viên, nghiệp vụ ngắn hạn vốn được quy định là chức năng, nhiệm vụ của trung tâm GDTX hiện cũng không có trung tâm nào tổ chức được do không được quận, huyện đặt hàng đào tạo. Việc không triển khai được các chương trình đào tạo thuộc chức năng, nhiệm vụ của trung tâm GDTX có thể do chưa tạo được nhu cầu đào tạo, do chỉ đạo giao nhiệm vụ, định hướng của các cấp quản lý đã và đang có những tác động rất lớn đến sự tồn tại, xu hướng phát triển vững mạnh của hệ thống trung tâm này.

 

Về vai trò quản lý nhà nước
Do trung tâm GDNN-GDTX là một mô hình mới nên việc vận hành trung tâm còn nhiều bất cập; sự phối hợp quản lý của Sở LĐTBXH, Sở GDĐT, UBND các quận huyện còn chưa đồng bộ, chưa có sự gắn kết.

 

Việc xếp hạng, kiểm định trung tâm chưa thực hiện được.
Tháng 7/2018, sau 03 năm thực hiện Thông tư liên tịch số 39/2015/TTLT-BLĐTBXH-BGDĐT-BNV, Bộ GDĐT đã tổ chức buổi hội thảo tổng hợp tình hình thực hiện Thông tư 39 để đánh giá về thực trạng của các trung tâm sau khi sáp nhập trong cả nước. Báo cáo của Bộ GDĐT cũng đã chỉ ra nhiều vấn đề còn bất cập trong công tác quản lý, chỉ đạo và chế độ chính sách như đã nêu ở trên. Trong buổi hội thảo, rất nhiều đại biểu từ các Sở GDĐT, trung tâm GDNN-GDTX ở các tỉnh, thành trong cả nước đã phát biểu tham luận, trao đổi về những thuận lợi, khó khăn, bất cập trong công tác quản lý, chỉ đạo hoạt động trung tâm GDNN-GDTX tại địa phương, tiêu biểu như các tỉnh, thành: Đồng Tháp, Quảng Ninh, Nam Định, Hòa Bình, Phú Yên, Đăk Nông, Đồng Nai, Tiền Giang, Vĩnh Phúc, Bắc Kạn, Sơn La, Lào Cai, Hưng Yên, Quảng Trị, Kon Tum, Bạc Liêu, Hà Nội. Đại bộ phận các ý kiến phát biểu đều xoay quanh những vấn đề về các nhiệm vụ, giải pháp đã và đang thực hiện tại trung tâm GDNN-GDTX; những khó khăn, bất cập cần tháo gỡ và đều nhất trí đề nghị Bộ LĐTBXH, Bộ GDĐT sớm ban hành văn bản xếp hạng cho các trung tâm GDNN–GDTX để làm căn cứ, xây dựng vị trí việc làm và triển khai các nhiệm vụ thuộc chức năng, nhiệm vụ được giao; sớm xây dựng Thông tư hướng dẫn cụ thể về Quy chế hoạt động, chế độ chính sách cho cán bộ, giáo viên, nhân viên; có kế hoạch mở các lớp đào tạo nghề cho giáo viên dạy văn hóa có nguyện vọng chuyển đổi sang dạy nghề hoặc vừa dạy văn hóa vừa dạy nghề...

 

Trước những yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện GDĐT nói chung và đối với ngành học GDTX Hà Nội nói riêng, nhằm phát huy được vị thế, vai trò, chức năng và nhiệm vụ của GDTX theo quy định, cần thiết phải nghiên cứu xây dựng và triển khai các giải pháp quản lý phù hợp, khả thi để phát triển hệ thống các trung tâm GDNN-GDTX của Thành phố, giúp các trung tâm khắc phục, tháo gỡ những khó khăn về cơ chế, chính sách, điều kiện hoạt động để trung tâm hoạt động hiệu quả, bền vững đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên, học tập suốt đời của người dân, góp phần xây dựng xã hội học tập của Thủ đô.

 

Mục tiêu:
- Hệ thống các vấn đề lý luận và cơ sở pháp lý liên quan đến quản lý các trung tâm GDNN-GDTX trong tình hình mới.
- Nghiên cứu kinh nghiệm một số nước trên thế giới và thực tiễn tại Việt Nam về hoạt động giáo dục dạy nghề, GDTX, hoạt động hướng nghiệp.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng hoạt động trung tâm GDNN-GDTX trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Nghiên cứu, xây dựng các giải pháp quản lý trung tâm GDNN-GDTX trên địa bàn thành phố Hà Nội trong tình hình mới.
- Đề xuất xây dựng mô hình kỳ vọng: trung tâm GDNN-GDTX trên địa bàn Hà Nội hoạt động theo định hướng của mô hình trường Trung học nghề và trường THPT kỹ thuật.

 

Nội dung nghiên cứu:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng quản lý và hoạt động của các trung tâm GNNN-GDTX ở Hà Nội.
- Khảo sát, trao đổi kinh nghiệm về thực trạng quản lý và hoạt động của các trung tâm GNNN-GDTX ở một số tỉnh, thành trong nước.
- Đề xuất các giải pháp quản lý trung tâm GDNN-GDTX trên địa bàn Hà Nội trong tình hình mới.
- Khảo nghiệm, đánh giá và hoàn thiện các giải pháp quản lý trung tâm GDNN-GDTX.

 

Kết quả của đề tài:
Có thể khẳng định, việc phát triển trung tâm GDNN-GDTX là một nội dung cơ bản trong lộ trình xây dựng xã hội học tập gồm 03 khái niệm cốt lõi: Giáo dục thường xuyên - Đào tạo liên tục - Học tập suốt đời. Trong bối cảnh phát triển nền kinh tế tri thức và điều kiện cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tiến triển, bất cứ ai, không loại trừ tuổi tác, trình độ chuyên môn, nghề nghiệp, địa vị xã hội, hoàn cảnh sống và lao động, giới tính và thành phần dân tộc… đều phải tiến hành học tập để tránh rơi vào tình trạng bị lão hóa tri thức, lạc hậu về tay nghề để có thể thích ứng được với những thay đổi nhanh chóng, liên tục của xã hội. Học tập suốt đời vừa là quyền lợi, vừa là trách nhiệm của công dân. Công dân có quyền lựa chọn hình thức học tập phù hợp với năng lực, sở thích và điều kiện, hoàn cảnh của mình để nâng cao tri thức, hiểu biết, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế; học để có nghề nghiệp, có việc làm hiệu quả, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của công việc; học để cống hiến được nhiều hơn, để làm cho mình và mọi người hạnh phúc; học để góp phần phát triển đất nước và nhân loại.

 

Trong hơn 02 năm nghiên cứu nghiêm túc với tinh thần trách nhiệm cao đối với ngành giáo dục Thủ đô, nhóm nghiên cứu đã hoàn thành các mục tiêu cơ bản của đề tài bao gồm:
- Nghiên cứu hệ thống lý thuyết về GDTX, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục hướng nghiệp và dạy nghề của các tác giả trong nước và sưu tầm dịch thuật nhiều tài liệu của nước ngoài về xây dựng xã hội học tập, mô hình giáo dục phổ thông với dạy nghề hướng nghiệp cho học sinh sau khi tốt nghiệp THCS, các tài liệu này làm cơ sở để xây dụng khung lý thuyết cho đề tài và vận dụng các mô hình thành công của nước ngoài vào xây dựng hệ thống giải pháp cho các trung tâm GDNN-GDTX trong tình hình mới.
- Hệ thống lại lịch sử của ngành GDTX và các văn bản chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về giáo dục, về đổi mới giáo dục nói chung và GDTX, giáo dục nghề nghiệp nói riêng. Các văn bản pháp lý về việc sáp nhập 3 trung tâm GDTX, trung tâm kỹ thuật hướng nghiệp và trung tâm dạy nghề thành trung tâm GDNN-GDTX.
- Xây dựng hệ thống các phiếu điều tra, khảo sát ý kiến của nhiều đối tượng (cán bộ quản lý các cấp, giáo viên, nhân viên, học viên), nắm tình hình điều tra xã hội học ở các trung tâm GDNN-GDTX và các cơ quan Sở, ngành, quận/huyện/thị xã để đánh giá thực tiễn những điểm thuận lợi và khó khăn trong hoạt động giáo dục của các trung tâm GDNN-GDTX nhằm tìm ra những giải pháp để phát triển trung tâm.

 

Qua quá trình nghiên cứu, các tác giả đã nhận thấy việc sáp nhập 3 trung tâm thành trung tâm GDNN-GDTX và giao về cấp quận, huyện quản lý cũng có mặt thuận lợi, đó là: giảm biên chế cho các trung tâm, giúp các địa phương quan tâm hơn tới GDNN-GDTX, tạo thuận lợi cho người học tại địa phương khi tham gia học nghề và học tập suốt đời. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng còn bộc lộ nhiều bất cập, đó là: việc sáp nhập 3 trung tâm hoàn toàn theo tính cơ học mà chưa nghiên cứu thấu đáo về tính khoa học giáo dục, khoa học quản lý và thực tiễn tại cơ sở, từ đó phát sinh nhiều khó khăn cho các trung tâm và các cơ quan quản lý.

 

Sau 2 năm nghiên cứu, các tác giả đã xây dựng được 03 nhóm giải pháp giúp các trung tâm và các nhà quản lý tham khảo, ứng dụng đó là:

 

* Nhóm giải pháp về quản lý nhà nước:
- Xây dựng quy chế hoạt động của mô hình trung tâm GDNN-GDTX;
- Xây dựng vị trí việc làm tại trung tâm GDNN-GDTX;
- Xây dựng quy chế phối hợp giữa Sở GD&ĐT – Sở LĐTBXH - các quận, huyện, thị xã trong việc quản lý trung tâm GDNN-GDTX.

 

* Nhóm giải pháp về quản lý chất lượng:
- Xây dựng chức năng, nhiệm vụ của trung tâm GDNN-GDTX trong tình hình hình mới;
- Xây dựng quy trình tổ chức kiểm tra, đánh giá; tự đánh giá trong và đánh giá ngoài hoạt động giáo dục trung tâm GDNN-GDTX Hà Nội.
- Xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên đáp ứng tình hình mới;
- Tăng cường chuyển đổi số trong quản lý và hoạt động của các trung tâm GDNN-GDTX.


* Giải pháp: Xây dựng mô hình kỳ vọng “Trường THPT và Dạy nghề”.

Hệ thống giải pháp này cơ bản đã đầy đủ để giải quyết những bất cập về tổ chức biên chế và quyền lợi của cán bộ giáo viên ở các trung tâm, giải quyết mâu thuẫn chồng chéo giữa các cơ quan quản lý, định hướng để đào tạo bồi dưỡng cán bộ giáo viên trung tâm từ đó nâng cao chất lượng dạy học. Các giải pháp này cũng là nguồn tài liệu hết sức quý giá nếu Bộ GD&ĐT quan tâm để ban hành quy chế hoạt động trung tâm GDNN-GDTX trong cả nước.

 

Với lòng yêu nghề và sự trăn trở với ngành học GDNN – GDTX, một ngành học luôn bị thiệt thòi hơn so với các ngành học khác, các tác giả đã biên dịch nhiều tài liệu nước ngoài về mô hình giáo dục tương tự như mô hình GDNN-GDTX của Việt Nam, tham khảo các mô hình đã có ở Việt Nam từ trước đến nay để xây dựng một mô hình kỳ vọng cho tương lai. Nếu được các nhà lãnh đạo, quản lý quan tâm và cho phép thực hiện, tin tưởng rằng mô hình này sẽ có thể phát huy tác dụng rất lớn trong nền giáo dục quốc dân khi vừa có tính khả thi, vừa tiết kiệm được ngân sách đầu tư, vừa nâng vị thế của ngành học GDNN-GDTX, đặc biệt là phù hợp với nhu cầu của người học hiện tại và tương lai.

Tin đọc nhiều

Đại hội đại biểu Hội Luật gia quận Long Biên khoá IV, nhiệm kỳ 2024-2029

19:26 26/06/2024

HNP - Ngày 26/6, Hội Luật gia quận Long Biên tổ chức Đại hội đại biểu khóa IV, nhiệm kỳ 2024-2029 với nhiệm vụ đánh giá kết quả hoạt động Hội trong nhiệm kỳ 2018-2024, đề ra phương hướng trọng tâm nhiệm kỳ 2024-2029; đồng thời bầu Ban Chấp hành quận Hội khoá IV, bầu đại biểu dự Đại hội đại biểu Hội Luật gia thành phố Hà Nội lần thứ VIII, nhiệm kỳ 2024-2029.

Triển khai thực hiện Nghị định số 63/2024/NĐ-CP ngày 10/6/2024 của Chính phủ

06:39 26/06/2024

HNP – Phó Chủ tịch UBND Thành phố Hà Minh Hải vừa ký ban hành Công văn số 1928/UBND-KSTTHC ngày 18/6/2024 về việc triển khai thực hiện Nghị định số 63/2024/NĐ-CP ngày 10/6/2024 của Chính phủ.

Xây dựng thành phố Hà Nội tiêu biểu về lối sống, phong cách ứng xử

06:37 26/06/2024

HNP - Phó Chủ tịch UBND Thành phố Vũ Thu Hà đã ký ban hành Kế hoạch số 182/KH-UBND ngày 14/6/2024 về việc tổ chức thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TU ngày 19/2/2024 của Ban Thường vụ Thành ủy “Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng về xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh đến năm 2025”.

Phê duyệt Phương án vị trí tuyến đường quy hoạch nối từ đê sông Hồng đến khu đô thị Thạch Bàn

21:33 18/06/2024

HNP - Phó Chủ tịch UBND Thành phố Dương Đức Tuấn vừa ký ban hành Quyết định số 2883/QĐ-UBND ngày 03/6/2024 về việc phê duyệt Phương án vị trí tuyến đường quy hoạch nối từ đê sông Hồng đến khu đô thị Thạch Bàn, quận Long Biên, tỷ lệ 1/500.

Nâng cao chất lượng quản lý phát triển xã hội gắn với bảo đảm quyền con người, quyền công dân

21:31 18/06/2024

HNP – Phó Chủ tịch UBND Thành phố Vũ Thu Hà vừa ký ban hành Kế hoạch số 181/KH-UBND ngày 13/6/2024 về việc thực hiện Chương trình hành động số 32-CTr/TU ngày 04/04/2024 của Thành ủy Hà Nội.